Bộ phận dùng: hột lúa mạch mì đã có mầm. Hột khô chắc cứng, mọc mầm đều, còn đủ mầm, không ẩm mốc, không nát là tốt.
Xưa nay ta vẫn dùng hột Đại mạch nghĩa là Mạch nha không mầm, phơi khô. Như thế là không đủ. Nên dùng Cốc nha tức là hạt thóc tẻ (Oriza sativa L), thóc chiêm ngâm cho nẩy mầm rồi phơi khô.
Thành phần hoá học: mạch nha và cốc nha có thành phần hóa Học giống nhau, có tinh bột, chất béo, protid, men chuyển hoá đường, matose, saccharose glucose, sinh tố B, lexitin, các men amylase, mantase.
Tính vị:
Vị mặn, tính ôn (Mạch nha).
Vị ngọt, tính ôn (Cốc nha).
Quy kinh: Cả hai loại cùng vào hai kinh Tỳ và Vị.
Tác dụng: tiêu hoá, hạ khí ức, tiêu tích.
Chủ trị: Trị cam tích trẻ con, trị thực tích.
- Khó tiêu biểu hiện như chán ăn và chướng bụng và thượng vị: Dùng Mạch nha hợp với Sơn tra, Thần khúc và Kê nội kim.
- Tắc sữa hoặc tức vú kèm đau: Dịch sắc của Mạch nha nửa sống và nửa sao, dùng 2 lần/ngày, 30-60g/lần.
- Can khí uất và Vị khí trệ biểu hiện như phình và đầy ngực và vùng xương sườn, đau thượng vị: Dùng Mạch nha với Sài hồ, Chỉ thực và Xuyên luyện tử.
Liều dùng: Ngày dùng 12 - 1 6g.
Kiêng ky: người có thai hoặc đang cho con bú thì không nên dùng (mất sữa)
Cách Bào chế:
Theo Trung Y: Dùng thứ lúa mạch hột to, ngâm vào nước cho mềm thấu, vớt ra để ráo
nước, ủ độ 5 - 6 ngày cho hấp hơi nóng, mọc mầm rồi phơi khô, khi dùng làm thuốc thì sao cho giòn, xát bỏ vỏ.
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Ta không có và cũng không nhập mạch nha, nên chỉ dùng đại mạch, sao qua cho vàng để dùng.
Bảo quản: rất dễ mốc, mọt. Để nơi khô, râm mát, đựng lọ kín.
Kiêng kỵ: không dùng mạch nha trong thời kỳ cho con bú.