Bộ phận dùng: cả cây. Cả cây từ chỗ đâm cành trở lên có nhiều lá và hoa sắp nở, bỏ gốc rễ. Khô, không mục, không vụn nát, không mọt là tốt.
Tính vị: vị đắng, tính hàn, chín thì ôn.
Quy kinh: : vào kinh Can và Thận.
Tác dụng: làm thuốc khu phong, trừ thấp, hoạt huyết.
Chủ trị: trừ phong thấp, trị tê bại.
Liều dùng: Ngày dùng 12 - 16g, thuốc phiến hoặc 1 - 3ml cao lỏng.
Cách bào chế:
Theo Trung Y: Hái lấy cành nhỏ và lá phơi khô, nửa tẩm rượu nửa tẩm mật trộn lẫn vớinhau. Đồ chín rồi phơi (làm chín lần).
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Rửa sạch, thái khúc 2 – 3 cm, phơi khô, cứ 1kg dược liệu tẩm với 100g rượu hoà với 50g, thưng lên rồi lại tẩm phơi (9 lần). Sao vàng.
Sau khi bào chế như trên, có thể nấu thành cao đặc 1 ml = 10g dược liệu hoặc tán bột làm hoàn.
Bảo quản: dễ hút ẩm, mốc, mục, mọt, vì vậy phải để nơi khô ráo, thường xuyên phơi.
Ghi chú:
không nhầm với cây Cỏ hôi (hay cây Cứt lợn, Thắng hồng kê) (Ageratum conyzoides Lin, họ cúc) hoa trắng, tím lơ vẫn dùng nấu nước để gội đầu.