Bộ phận dùng: gỗ của nhiều thứ cây cổ thụ như cây Trầm gió (Aquilaria agllocha Roxb) họ Trầm (Thymleaceae) vùng Quảng Bình là tốt nhất. Ngoài ra còn có cây Xướng rồng (Euphorbia antiquorum L) cạnh ba cành lồi (rất hiếm, kém) lâu ngày hoá thành gỗ thơm gọi là Trầm hương.
Thơm đen, cứng, đắng nhiều, nhiều dầu, khi đốt sùi dầu ở gần lửa, khói rất thơm mát, thả xuống nước chìm là tốt. Còn loại Trầm cói, Trầm mắm đốt khói đen mùi như trầm đám ma là kém.
Thành phần hoá học: chứa tinh dầu, chất Agoron, Benzyl axeton, chất nhựa v. v...
Tính vị: vị cay, tính ôn, độc.
Quy kinh: Vào kinh Tỳ, Vị và Thận.
Tác dụng: giáng khí, làm mạnh nguyên dương, hạ đờm.
Chủ trị: -Ù Liều dùng: trị nôn mửa, đau bụng, trị lỵ độc, cấm khẩu, khí nghịch lên suyễn.
- Hàn khí ngưng trệ biểu hiện như chướng và đau thượng vị và bụng: Dùng Trầm hương với Ô dược và Mộc hương.
- Hàn ở Vị biểu hiện như đau thắt lưng và buồn nôn: Dùng Trầm hương với Đinh hương và Bạch đậu khấu.
- Hen do Thận suy không nạp được khí: Dùng Trầm hương với Phụ tử và Nhục quế.
Liều dùng: Ngày dùng 2 - 4g.
Cách Bào chế:
Theo Trung Y: Muốn cho vào thuốc hoàn tán thì đẽo nhỏ phơi khô, tán thành bột, hoặc cho vào nắp khạp, nắp siêu mài với nước lấy bột phơi khô dùng. Nếu bỏ vào.thuốc thang thì mài rồi điều vào thuốc sắc mà uống (Bản Thảo Cương Mục).
Lấy gỗ trầm hương đồ nóng, cho mềm, thái lát mỏng cho vào thuốc sắc, hoặc nghiền nhỏ hoặc mài với nước dùng.
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Mài hay cạo ra bột hoà với thuốc sắc uống nóng. Làm thuốc tán thì thái nhỏ, tán bột mịn, hoà với bột thuốc khác mà làm hoàn tán.
Bảo quản: cho vào bình đậy kín, tránh nóng, để nơi khô ráo, không phơi nắng, không bảo quản bằng vôi sống (sẽ khô mất dầu).
Kiêng ky: âm hư hoả vượng, khí hư hạ hãm không nên dùng.