Bộ phận dùng: rễ. Xuyên hay hoài Ngưu tất rễ to, bề ngoài hồng trong nhiều thịt sắc vàng sậm, dài, mềm, dẻo là tốt.
Đồ Ngưu tất sắc đen, nhiều vân và xơ. Còn các thứ khác nữa, kém hơn.
Cây Cỏ xước của Việt Nam mọc hoang (Achyranthes aspera L) rễ xơ và cứng hơn.
Tính vị: đắng, chua, tính bình.
Quy kinh: Vào kinh Can và Thận.
Tác dụng: dùng sống thì phá huyết hành ứ, dùng chín thì bổ Can Thận, mạnh gân cốt.
Chủ trị:
+ Dùng sống: trị kinh bế sinh hòn cục, đẻ ra huyết, khó đẻ, bọc nhau không ra.
+ Dùng chín: trị lưng gối tê đau, teo, yếu.
- Ứ máu biểu hiện như vô kinh, ít kinh, loạn kinh và đau do chấn thương ngoài: Dùng Ngưu tất với Đào nhân, Hồng hoa, Đương qui và Diên hồ sách.
- Can và thận kém biểu hiện như đau và yếu vùng thắt lưng và chân: Dùng phối hợp ngưu tất với tang ký sinh, đỗ trọng và câu kỷ.
- Giãn mạch máu quá mức biểu hiện như nôn ra máu và chảy máu cam: Dùng phối hợp ngưu tất với tiểu kế, trắc bách diệp và bạch mao căn.
- Âm suy và dương vượng dẫn đến phong can nội chạy lên trên biểu hiện như đau đầu, hoa mắt và chóng mặt: Dùng phối hợp ngưu tất với đại giả trạch, mẫu lệ và long cốt dưới dạng trấn can tức phong thang.
- Âm suy và vương hỏa biểu hiện như loét miệng và sưng lợi: Dùng Ngưu tất với Sinh địa và Tri mẫu.
- Rối loạn đường niệu biểu hiện như đi tiểu đau, tiểu ra máu và nước tiểu ít: Dùng Ngưu tất với Thông thảo, Hoạt thạch và Cù mạch trong bàing Ngưu Tất Thang.
Liều dùng: Ngày dùng 6 - 12g
Cách Bào chế:
Theo Trung Y: Đào về rửa sạch bùn đất, phơi khô. Khi dùng cắt bỏ đầu cuống, nhúng nước cho mềm, thái lát hoặc cắt đoạn (dùng sống) hoặc tẩm rượu sao, tẩm muối sao cháy đen (dùng chín) tuỳ từng trường hợp.
Theo kinh nghiệm Việt Nam:
+ Dùng sống (cách này thường dùng): rửa sạch, để ráo nước, thái mỏng 1 - 2mm, sấy khô.
+ Dùng chín: tẩm rượu hoặc tẩm muối tuỳ từng trường hợp, sấy khô.
Bảo quản: tránh ẩm, rất dễ mốc, cần để nơi khô ráo, kín. Nếu mốc, có thể sấy hơi diêm sinh, xong phải phơi lại trước khi đóng gói.